Phân tích ESG: thông tin đầu vào cho quyết định đầu tư
Các nhà đầu tư cho rằng ESG là khía cạnh phi tài chính quan trọng để phân tích rủi ro và các cơ hội tăng trưởng của công ty. Vậy từ quan điểm đầu tư, ESG được phân tích như thế nào?
Bài này tổng hợp các ghi chép từ khoá: ESG Fundamental của CFI và các bài báo khoa học về ESG. Có câu ‘không ai đọc chung một cuốn sách’ - mình đồng ý rằng: dù chung nguồn học liệu, khả năng học hỏi và đúc rút của mỗi người là khác nhau. Nếu bạn đọc bài này và thấy hứng thú với chủ đề này, mình khuyến khích bạn đăng ký khoá học của CFI.
Các nhà đầu tư cho rằng ESG là khía cạnh phi tài chính quan trọng để phân tích rủi ro và các cơ hội tăng trưởng của công ty. Các danh mục ESG tại nhiều thị trường (Việt Nam, Indonesia1…) đã cho đến kết quả đầu tư vượt trội với biến động giá cổ phiếu thấp hơn các danh mục khác trong thời kỳ Covid19, đã bổ sung thêm bằng chứng ủng hộ quan điểm này.
Vậy từ quan điểm đầu tư, ESG được phân tích như thế nào để trở thành nguồn thông tin quan trọng cho quyết định đầu tư?
ESG dựa trên lý thuyết Các bên liên quan (Stakeholder Theory) cho rằng bên cạnh việc quan tâm đến lợi ích của chủ sở hữu, công ty cần đáp ứng các yêu cầu đòi hỏi của các đối tác khác, bao gồm Nhân viên, Khách hàng, Nhà cung cấp, Cộng đồng địa phương, Hiệp hội, Các tổ chức phi chính phủ, và các Cơ quan chính phủ.
Những nhóm công chúng này có những cách gây ảnh hưởng đặc thù đến khả năng sinh lợi của công ty.
Chủ sở hữu (Shareholder / Owner) gây ảnh hưởng thông qua các quyết định góp vốn hoặc rút vốn khỏi công ty, và thay đổi ban quản trị. Mặc dù các quyền lợi tài chính (như cổ tức hay biến động giá cổ phiếu) là mối quan tâm chính, chủ sở hữu công ty có thể tạo ra giá trị ở khi chủ động tham gia trong các quyết định đầu tư, hoặc chia sẻ thông tin có giá trị.
Nhân viên công ty tác động đến khả năng sinh lợi của công ty trong nhiều khía cạnh, trong đó có việc điều chỉnh hiệu suất làm việc, điều chỉnh cách đối đãi với khách hàng mà họ phục vụ, hoặc có thể tạo nên các cuộc đình công.
Khách hàng có thể chọn mua hoặc không mua sản phẩm dịch vụ của công ty, khen ngợi hoặc gây hại đến thương hiệu thông qua các quan điểm của họ trên truyền thông xã hội.
Nhà cung cấp thực thi ảnh hưởng của mình ở việc tăng/giảm giá bán sản phẩm dịch vụ, thay đổi các chính sách công nợ, chính sách bán hàng, hoặc điều chỉnh chất lượng sản phẩm. Rõ ràng, các nhà cung cấp ảnh hưởng sâu rộng đến chi phí vận hành và sự liên tục trong hoạt động của công ty.
Cộng đồng địa phương, các tổ chức phi chính phủ - sự phản đối gay gắt của họ trước các dự án và hoạt động của công ty có thể làm trễ nải các kế hoạch kinh doanh sản xuất - tạo thêm chi phí chìm, hoặc dấy lên các nguy cơ rủi ro danh tiếng. Nestlé, một công ty thực phẩm và đồ uống đa quốc gia, đã vấp phải sự phản đối của cộng đồng địa phương và sự chỉ trích từ các nhà bảo tồn2 vì đã khai thác một lượng lớn nước từ các con suối ở California ngay cả trong những năm hạn hán.
Các hiệp hội thương mại cung cấp cho công ty một mạng lưới thông tin hữu ích, cùng với đó là các hỗ trợ từ bên ngoài như đóng góp sửa đổi luật, các quy định hoặc qua các cuộc vận động chính sách.
Cơ quan chính phủ thông qua việc tăng/giảm thuế - giới thiệu luật và quy định mới, cung cấp các incentives cho các sáng kiến mới - thực thi quyền lực của mình lên hoạt động của các công ty.
Cũng theo lý thuyết này, ESG làm tăng giá trị công ty bằng cách quản trị mối quan hệ lành mạnh và hài hoà lợi ích với các đối tác, tăng nhận diện thương hiệu (hình thành các lợi thế cạnh tranh), từ đó, giúp tăng trưởng doanh thu trong dài hạn.
Các nhà phân tích đánh giá các ảnh hưởng của các yếu tố E, S, và G đến năm nhóm thông tin ảnh hưởng đến quyết định đầu tư (materiality), bao gồm: (1) ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính và rủi ro trong ngắn hạn và trung hạn; (2) khuôn khổ pháp lý, các quy định và chính sách; (3) tiêu chuẩn ngành và cạnh tranh; (4) mối quan tâm của các đối tác; và (5) cơ hội đổi mới.
Ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính và rủi ro trong ngắn hạn và trung hạn
Việc tích hợp các yếu tố ESG vào chiến lược của công ty trực tiếp ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của công ty trong ngắn và trung hạn. Ví dụ như việc khan hiếm nước ngọt (một vấn đề nhóm E) có thể ảnh hưởng tiêu cực đến nguồn cung của các công ty sản xuất đồ uống, khiến năng lực sản xuất giảm sút và dẫn đến các hậu quả tiêu cực trong doanh thu.Khuôn khổ pháp lý, các quy định và chính sách
Cần để ý đến các chi phí liên quan đến sự thay đổi trong quy định và chính sách, ví dụ như những khoản phạt chưa được tính đến khi hoạch định ngân sách vốn cho các dự án đầu tư tài sản, các khoản thuế (ví dụ như khoản phạt phát thải theo luật BVMT 20203)… Những sự thay đổi trong khuôn khổ pháp lý, các quy định và chính sách vừa có thể làm tăng chi phí, nhưng cũng có thể mở ra những cơ hội khai thác các thị trường mới chưa được đáp ứng.
Tiêu chuẩn ngành và cạnh tranh
Khi việc ứng dụng ESG trở thành những yêu cầu bắt buộc tại các thị trường UK, EU, và một số thị trường mới nổi khác - trong đó có Việt Nam4, việc tích hợp các yếu tố ESG trong chiến lược kinh doanh trở thành điểm nhìn để so sánh giữa các công ty. Các công ty trưởng thành có được lợi thế cạnh tranh và lợi thế thời gian so với đối thủ của họ.
Mối quan tâm của các đối tác
Như phân tích ở trên, sự quan tâm ngày càng gia tăng của các đối tác đối với các vấn đề E và S như biến đổi khí hậu, phân biệt chủng tộc - định hướng nhu cầu và thói quen tiêu dùng - ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng doanh thu, hiệu quả hoạt động và hiệu quả tài chính trong ngắn và trung hạn của công ty.
Cơ hội đổi mới
Khi thị trường thay đổi, những pain-points mới bắt đầu lộ diện tạo ra những nhóm khách hàng mới, những sản phẩm mới, và các cơ hội kinh doanh có thể mở ra. (Sự phát triển của các climate fintech5- điển hình như nhóm liên quan đến mua bán, kiểm đếm các tín chỉ carbon có thể là ví dụ đặc sắc cho phần này.)
Quá trình phân tích ảnh hưởng của các yếu tố E, S, và G đối với 5 nhóm thông tin ảnh hưởng đến quyết định đầu tư trên đây, có thể tuần tự theo bốn bước:
Phân tích Ngành:
Các báo cáo ngành hoặc từ các hiệp hội có thể cung cấp cái nhìn tổng quan về các yếu tố E, S, G ảnh hưởng đến ngành như thế nào.
Ví dụ đối với ngành nước giải khát, sự cạn kiệt tài nguyên nước ngọt (E) có thể ảnh hưởng mạnh đến khả năng sản xuất và sự xuyên suốt của hoạt động kinh doanh.Phân tích Mô hình kinh doanh:
Những manh mối thu thập được ở cấp độ ngành có tác động như thế nào trong mô hình kinh doanh, cụ thể, chúng sẽ ảnh hưởng đến (1) chuỗi cung ứng, (2) quy trình sản xuất, (3) hệ thống phân phối, và những (4) nhóm đối tác quan trọng như thế nào?
Ví dụ đối với công ty ngành nước giải khát theo mô hình sản xuất và phân phối truyền thống, các ảnh hưởng của việc khan hiếm nước có thể dẫn đến các tiêu chí rõ ràng hơn trong việc chọn lựa các khu vực nhà máy và yêu cầu đối với nhà cung cấp, hoặc yêu cầu ứng dụng các quy trình sản xuất cho phép tiết kiệm nước hoặc giảm thiểu thất thoát nước bằng các hệ thống tuần hoàn. Phân tích mô hình kinh doanh cho thấy nhiều lựa chọn chiến lược của công ty liên quan đến các vấn đề ESG.Phân tích Chiến lược tăng trưởng của công ty:
Các vấn đề E hay S có đặc điểm quan trọng là chúng có khả năng thay đổi trong tương lai, đòi hỏi phân tích cần nhìn trước được xu hướng thay đổi này ảnh hưởng đến chiến lược và khả năng tăng trưởng trong trung hạn và dài hạn.Phân tích Ảnh hưởng đến Nhà cung cấp, Khách hàng và những đối tác khác:
Từ phân tích ở bước 3, các ảnh hưởng của ESG có thể được soi rõ hơn trong mối quan hệ với Nhà cung cấp và Khách hàng của công ty.
Từ đây, kết hợp với việc chọn các mốc đánh giá và trọng số cho từng vấn đề E, S, và G - một thẻ điểm ESG (ESG Score Card) - một công cụ hữu ích cho việc theo dõi các tiến trình tích hợp ESG và so sánh chéo giữa các công ty / cơ hội đầu tư được thực hiện.
Sonny, E., & Lubis, A. W. (2023). THE ROLE OF RISK-TAKING AND ESG ON FIRM VALUE: EVIDENCE FROM INDONESIA FOR THE PERIOD OF 2014-2020. Jurnal Scientia, 12(01), 462-470. https://doi.org/10.58471/scientia.v12i01.1134
Intelligence, E. O. S. (2019, September 12). Beverage industry in troubled waters, attempting conservation efforts. EOS Intelligence - Powering Informed Decision-Making. Retrieved March 9, 2023, from https://www.eos-intelligence.com/perspectives/energy-resources/beverage-industry-in-troubled-waters-attempting-conservation-efforts/
Một Số Điểm Mới Trong Luật Bảo Vệ Môi Trường Năm 2020 Về Quản Lý Chất Thải Rắn Sinh Hoạt. Tạp chí Điện tử Luật sư Việt Nam - Cơ quan của Liên đoàn Luật sư Việt Nam. (n.d.). Retrieved March 9, 2023, from https://lsvn.vn/mot-so-diem-moi-trong-luat-bao-ve-moi-truong-nam-2020-ve-quan-ly-chat-thai-ran-sinh-hoat1670859577.html
PricewaterhouseCoopers. (n.d.). Vietnam ESG Readiness Report 2022. PwC. Retrieved March 9, 2023, from https://www.pwc.com/vn/en/publications/vietnam-publications/esg-readiness-2022.html
Arup Kumar Chatterjee Principal Financial Sector Specialist. (n.d.). The Rise Of Climate Fintech. Asian Development Bank. Retrieved March 9, 2023, from https://blogs.adb.org/blog/rise-climate-fintech